Khi một dịch bệnh xuất hiện trên toàn cầu hoặc trên một khu vực địa lý rộng lớn, vượt qua biên giới quốc gia, ảnh hưởng đến cuộc sống và sức khoẻ của nhiều người, nó sẽ trở thành đại dịch. Trên thực tế, sự ảnh hưởng của dịch bệnh cũng góp phần lớn thay đổi lịch sử nhân loại.
Cuộc sống của con người ngày càng văn minh hơn, các tuyến giao thương hay các cuộc chiến mở rộng lãnh thổ đã khiến các loại dịch bệnh dễ dàng lây lan nhiều hơn. Cùng điểm lại những đại dịch tồi tệ nhất đã góp phần thay đổi lịch sử nhân loại.
Vào thế kỷ XIX, thêm nhiều đại dịch trên thế giới bùng phát tuy không gây ra tác động lớn đến các nền chính trị, nhưng ghi đậm dấu ấn trong lịch sử nhân loại bởi ảnh hưởng không nhỏ đến dân số và gây trì trệ nền kinh tế toàn cầu.
Dịch bệnh Athens (năm 430 trước Công nguyên)
Dịch bệnh Athens là đại dịch đã tàn phá thành phố Athens, Hy Lạp cổ đại trong Chiến tranh Peloponnesian (430 TCN). Khi bị Sparta tấn công, nhiều người từ nông thôn kéo về thành Athens lánh nạn. Quá tải về dân số, các khu vực cư dân nghèo, vệ sinh kém, thiếu hụt thực phẩm và y tế… là các điều kiện thuận lợi để một loại bệnh truyền nhiễm phát sinh và nhanh chóng lây lan khắp thành.
Dịch bệnh Athens có các triệu chứng giống thương hàn, bao gồm, sốt, khát nước, cổ họng và lưỡi chảy máu, da đỏ và bị tổn thương. Dịch bệnh đã làm suy giảm đáng kể dân số thành Athens, trở thành một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên thất bại của họ trước người Sparta.
Trước khi gây ra cái chết cho hơn 2/3 dân số Athens, dịch bệnh này đã xuất hiện ở Libya, Ethiopia và Ai Cập.
Bệnh dịch hạch Antonine (năm 165 sau Công nguyên)
Bệnh dịch hạch Antonine còn được gọi là bệnh dịch hạch Galen, đặt theo tên của một bác sĩ Hy Lạp sống ở La Mã, người đã mô tả lại biểu hiện của căn bệnh này. Các học giả đã nghi ngờ đây là sự xuất hiện sớm của bệnh đậu mùa. Căn bệnh xuất hiện đầu tiên ở người Huns, sau đó lây nhiễm cho các binh sỹ La Mã và tiếp tục lan rộng khắp đế chế La Mã qua các cuộc chiến.
Các triệu chứng bệnh bao gồm sốt, đau họng, tiêu chảy và xuất hiện các vết loét đầy mủ. Bệnh dịch này thường xuyên bùng phát trở lại đến năm 180 sau Công nguyên.
Cho đến nay, người ta vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân thực sự gây ra căn bệnh này. Dịch bệnh đã khiến khoảng hơn 5 triệu người tử vong, tàn sát quân đội La Mã, trong đó có Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius.
Bệnh dịch hạch Cyprian (năm 250 sau Công nguyên)
Bệnh được đặt theo tên của vị Thánh Cyprian, người được cho là trường hợp đầu tiên mắc bệnh. Ông đã ghi chép lại những biểu hiện của căn bệnh này như tiêu chảy, nôn mửa, loét cổ họng, sốt, hoại tử tay và chân.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, bệnh dịch hạch Cyprian xuất phát từ Ethiopia, vượt qua Bắc Phi vào Rome và lan tới Ai Cập. Người dân ở vùng bị ảnh hưởng đã di cư đi để tránh dịch bệnh, nhưng họ không hề biết rằng, hành động đó đã làm cho căn bệnh ngày càng lan rộng.
Trong khoảng 3 thế kỉ sau đó, những đợt bùng phát dịch định kỳ vẫn tiếp tục diễn ra. Năm 444, bệnh đã xuất hiện tại Anh và cản trở các nỗ lực phòng thủ chống lại người Picts và người Scotland của người Anh, khiến họ phải tìm sự giúp đỡ từ người Saxon – những người thống trị lãnh địa này về sau.
Bệnh dịch hạch Justinian (năm 541 sau Công nguyên)
Xuất hiện đầu tiên ở Ai Cập, bệnh dịch hạch Justinian lây lan khắp Palestine và Đế quốc Byzantine (nằm ở phía Đông của đế quốc La Mã sau này) rồi tiến thẳng về Địa Trung Hải.
Bệnh dịch hạch Justinian được ghi nhận là đợt dịch hạch đầu tiên của nhân loại. Bệnh lây lan nhanh chóng vì mầm bệnh nằm trong chuột và bọ chét, những con vật có mặt ở khắp nơi. Theo ước tính, căn bệnh này có thể là nguyên nhân gây tử vong cho 40% dân số trong thành phố Constantiople và 1/4 dân số ở phía Đông Địa Trung Hải, khiến tổng số nạn nhân lên đến hơn 50 triệu người (chiếm 26% dân số thế giới).
Dịch bệnh này đã cản trở kế hoạch thống nhất Đế chế La Mã của Hoàng đế Justinian, đồng thời khiến nền kinh tế của Đế quốc Byzantine thiệt hại nặng nề.
Sự lây lan nhanh chóng của dịch bệnh khiến nhiều người chết đã tạo ra một bầu không khí tận thế ảm đạm. Trước sự bất lực và tuyệt vọng, con người đã đặt niềm tin và thần linh, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến đạo Cơ Đốc giáo phát triển trong giai đoạn này.
Bệnh phong (thế kỷ XI)
Bệnh phong (còn gọi là bệnh hủi, cùi hay bệnh Hansen) do vi khuẩn Mycobacterium leprae gây ra. Vào thời kì trung cổ ở châu Âu, bệnh phong đã trở thành một đại dịch. Để có thể chữa trị số lượng lớn nạn nhân bị nhiễm bệnh và tránh sự lây lan, nhiều nơi đã phải xây dựng các bệnh viện đặc trị căn bệnh này.
Trước kia, người ta cho rằng, căn bệnh này là một hình phạt từ Chúa giáng xuống các gia đình, bởi bệnh phong là bệnh nan y (không có thuốc chữa), các triệu chứng của nó khi ở giai đoạn nặng rất đáng sợ (rụng ngón tay ngón chân, mặt mũi biến dạng). Chính sự mê tín này đã dẫn đến những đánh giá không đúng về đạo đức của người bệnh. Họ bị xa lánh, thậm chí còn ngược đãi như thả trôi sông, chôn sống, bỏ vào rừng cho thú dữ ǎn thịt.
Ngày nay, tuy có thể chữa khỏi một cách dễ dàng mà không tốn kém nhiều chi phí nhưng căn bệnh này vẫn khiến hàng chục ngàn người mắc phải mỗi năm trên toàn thế giới và có thể gây tử vong nếu không được điều trị bằng kháng sinh.
Cái chết Đen (The Black Plague, năm 1350)
Là nguyên nhân gây ra tử vong của 75 triệu người (1/3 dân số thế giới), lần xuất hiện thứ hai của bệnh dịch hạch được đặt tên là Cái chết đen này bắt nguồn từ châu Á, sau đó mầm bệnh theo đoàn người di cư, thương nhân và các đoàn lữ hành về phía Tây rồi lây lan sang khắp châu Âu và cả châu Phi một cách nhanh chóng.
Trong ba năm liên tục (1347-1350) số nạn nhân tử vong nhiều đến nỗi người ta không kịp xử lý các thi thể, khiến chúng bị thối rữa bốc mùi hôi thối. Ước tính, hơn 25 triệu dân châu Âu đã thiệt mạng trong đại dịch này.
Dịch bệnh cũng khiến Anh và Pháp tạm thời đình chiến vì không thể kiểm soát được sự lây lan. Căn bệnh này đã giết chết 1/3 dân số nước Anh, để lại một sự thiếu hụt nghiêm trọng về lao động nông nghiệp và binh sỹ quân đội. Người Viking cũng đã mất đi nguồn lực để tham gia cuộc chiến chống lại dân bản địa, đồng thời, họ cũng phải dừng lại cuộc thám hiểm Bắc Mỹ.
Thời kì trao đổi Columbus (năm 1492)
Người Tây Ban Nha xuất hiện tại vùng Caribbean đã mang theo những căn bệnh từ châu Âu như đậu mùa, sởi và nhiều bệnh dịch khác. Vì trước đây chưa từng mắc những căn bệnh này nên người dân bản địa không có sẵn kháng thể miễn dịch. Gần 90% dân số ở phía Bắc và Nam vùng Caribbean đã thiệt mạng bởi các dịch bệnh.
Khi Columbus đặt chân lên hòn đảo Hispaniola, có khoảng 60.000 người Taino sinh sống tại đây. Đến năm 1548, con số này còn ít hơn 500 người. Một “nạn nhân” khác của các dịch bệnh là đế chế Aztec. Năm 1520, đế chế này đã bị tận diệt bởi căn bệnh đậu mùa do lây nhiễm từ những nô lệ châu Phi.
Một nghiên cứu vào năm 2019 kết luận rằng, khoảng 56 triệu dân châu Mỹ bản địa đã chết vào thế kỉ thứ XVI – XVII, nguyên nhân chính là do các bệnh dịch hay sự biến đổi khí hậu do phá rừng.
Đại dịch tả lần thứ nhất (năm 1817)
Bệnh tả được ghi nhận lần đầu tiên trong y học tại danh mục các căn bệnh của bác sỹ người Hy Lạp cổ đại Hippocrates. Căn bệnh này bắt nguồn vùng châu thổ sông Hằng, nơi có mật độ dân cư tập trung đông đúc. Năm 1817, đại dịch tả lần thứ nhất bùng phát bắt nguồn từ Bengal sau đó lan sang Ấn Độ, Trung Quốc và vùng biển Caspian.
Theo các nhà khoa học, bệnh tả lây qua đường tiêu hoá, đường nước bị nhiễm bẩn bởi các loại chất thải người hoặc động vật, và qua thực phẩm bị nhiễm khuẩn tả trong quá trình chế biến hoặc bảo quản.
Căn bệnh này đã cản trở cuộc hành quân của tướng Hannibal (nhà chiến thuật quân sự tài ba người Carthage), khi 50.000 binh lính bị mắc bệnh do sử dụng nguồn nước bị nhiễm khuẩn tả.
Năm 1855, lần đầu tiên giới y học đã chế tạo ra vaccine, nhưng kể từ khi ca bệnh đầu tiên xuất hiện đến nay, loài người vẫn phải trải qua 7 lần đại dịch tả.
Đại dịch sởi (1848)
Theo các tài liệu cổ còn lưu giữ, năm 804 sau Công Nguyên, tại Thành phố Mashsad, Vương quốc Ba Tư (Iran ngày nay) đã xảy ra một trận đại dịch, giết chết gần 60.000 người. Lúc bấy giờ, bác sĩ người Ba Tư Rhazes, đã có những ghi chép sớm nhất về biểu hiện của căn bệnh sởi.
Nhưng phải đến năm 1757, bác sĩ người Scotland Francis Home mới phát hiện ra mầm bệnh. Năm 1848, một đợt bùng phát sởi ở Hawaii đã giết chết 1/3 số người sống trên đảo. Năm 1875, dịch sởi xảy ra ở đảo quốc Fiji đã quét sạch 40.000 người (khoảng 1/3 dân số) chỉ trong 4 tháng.
Năm 1916, căn bệnh này xuất hiện trở lại ở Pháp, khiến 12.000 người chết (phần lớn là trẻ em). Cũng khoảng thời gian này, trong suốt cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), khoảng 48.000 binh lính của cả hai phía Đồng minh và Đức bị chết vì các biến chứng của sởi.
Năm 1951, dịch sởi lại tiếp tục tấn công đảo Greenland (Đan Mạch), khiến 4.262 cư dân (chiếm 99,9% dân số) bị nhiễm bệnh.
Mãi đến năm 1963, y học mới tìm ra vaccine ngừa sởi. Trong suốt thời gian đó, ước lượng đã có 249 triệu người trên toàn thế giới chết vì căn bệnh này.
Sau gần nhiều năm công bố loại trừ bệnh sởi, thế giới lại ghi nhận các ổ dịch sởi ở một số nơi như Mỹ, châu Âu, Philippines… trong năm 2019.
Đại dịch hạch lần thứ 3 (1855)
Năm 541 (sau CN) đại dịch hạch lần đầu tiên xuất hiện với tên gọi “Justinian”. Đến năm 1350, căn bệnh bùng phát lần hai với tên gọi “Cái chết đen”. Năm 1855, một lần nữa, căn bệnh này xuất hiện và cướp đi sinh mạng của ít nhất 15 triệu người trên toàn thế giới. Riêng tại Ấn Độ, căn bệnh này đã khiến 10 triệu người tử vong.
Nguyên nhân ban đầu được xác định do mầm bệnh ký sinh trên chuột và bọ chét ở vùng Vân Nam (Trung Quốc), sau đó bùng phát ra nhiều nơi của nước này và lan sang Ấn Độ.
Đại dịch này được cho là một trong nhưng nguyên nhân gây nên các cuộc nổi dậy Panthay (1856–1873) và Taiping (1850-1864) chống lại sự cai trị của triều đình Mãn Thanh, hay cuộc nổi dậy chống lại sự đàn áp của người Anh ở Ấn Độ.
Năm 1960, đại dịch này mới được xem là kết thúc, khi các ca nhiễm bệnh chỉ còn dưới vài trăm.
Cúm Nga (1889)
Dịch cúm này bắt nguồn từ Siberia và Kazakhstan, sau đó lây lan vào Nga, Phần Lan, Ba Lan và khắp châu Âu, sau đó, tiếp tục lây lan về phía Tây, đến khu vực Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Ấn Độ, Australia… Tính đến cuối năm 1890, dịch bệnh này đã giết chết khoảng một triệu người.
Cho đến gần đây, các nhà khoa học mới tìm ra được nguyên nhân của dịch bệnh này có thể do các chủng H3N8 và H2N2 của virus cúm A.
Cúm Tây Ban Nha (1918)
Cúm Tây Ban Nha được cho là có nguồn gốc từ Trung Quốc, sau đó lây lan do những người lao động nước này di cư đến Bắc Mỹ và châu Âu.
Chỉ trong vòng 18 tháng, căn bệnh này đã lan rộng và trở thành đại dịch toàn cầu, khoảng 500 triệu người (1/3 dân số thế giới vào thời điểm đó) bị lây nhiễm và 50 triệu người tử vong (nhiều hơn số người chết trong Thế chiến thứ nhất).
Theo các nghiên cứu, dịch bệnh này bùng phát mạnh nhất ở Madrid, Tây Ban Nha vào mùa Xuân năm 1918, bởi thế, nó được đặt tên là Đại dịch cúm Tây Ban Nha.
Cúm châu Á (1956)
Cúm châu Á là đại dịch cúm A của chủng virus H2N2 có nguồn gốc từ Trung Quốc vào những năm 1956 – 1958.
Tháng 6/1957, đại dịch này đã càn quét nước Mỹ, gây ra cái chết của hơn 69.800 người dân sở tại. Theo báo cáo ở Anh và xứ Wales, đại dịch cũng đã lan đến Vương quốc Anh, khiến khoảng 3.550 người tử vong.
Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), khoảng 2 triệu người trên thế giới đã thiệt mạng do đại dịch này. Sau này, các nhà khoa học đã tìm ra một loại vaccine có thể ngăn ngừa chủng virus gây bệnh.
Đại dịch HIV / AIDS (1981)
HIV là virus gây hội chứng suy giảm miễn dịch ở người, lần đầu được phát hiện tại Cộng hòa Congo năm 1976. Dịch bệnh bùng phát từ đầu thập niên 1980.
Nếu không có hệ thống miễn dịch hoạt động tốt, những người bị HIV/AIDS sẽ dễ dàng mắc phải các bệnh khác, gây nhiễm trùng, dẫn đến tử vong. Virus lây lan qua đường máu và quan hệ tình dục.
HIV/AIDS vẫn là một trong những thảm họa kinh hoàng nhất mà nhân loại phải đối mặt trong nhiều năm gần đây. Tính đến đầu những năm 2000, có gần 35 triệu người tử vong trong số 65 triệu người nhiễm bệnh.
Cho đến nay, các phương pháp điều trị đã được phát triển để làm chậm tiến triển của căn bệnh này. Các biện pháp phòng ngừa và điều trị HIV/AIDS đều đã được cải thiện. Tuy nhiên, theo số liệu cuả Liên hợp quốc, đến cuối năm 2018, vẫn còn khoảng 37,9 triệu người nhiễm HIV/AIDS, trong số đó, 24,5 triệu người đã và đang được điều trị bằng thuốc kháng virus.
Dịch SARS (2002 – 2003)
SARS hay hội chứng hô hấp cấp tính nặng, là một căn bệnh gây ra bởi một trong 7 loại coronavirus có thể lây nhiễm sang người là: 229E (alpha coronavirus), NL63 (alpha coronavirus), OC43 (beta coronavirus), HKU1 (beta coronavirus), MERS-CoV (beta coronavirus), SARS-CoV (beta coronavirus), SARS-CoV-2 (COVID-19).
Ổ dịch đầu tiên được phát hiện ở Quảng Đông (Trung Quốc) vào năm 2003 và trở thành đại dịch toàn cầu khi nhanh chóng lan rộng ra tổng cộng 26 quốc gia. Dịch SARS lây nhiễm hơn 8.000 người và giết chết 774 người trên toàn thế giới.
Đại dịch kết thúc nhanh chóng, tỉ lệ tử vong thấp một phần nhờ hiệu quả của việc phản ứng nhanh, hành động quyết liệt của chính phủ các nước, bao gồm kiểm dịch các khu vực bị ảnh hưởng và cách ly các cá nhân bị nhiễm bệnh.
Sự bùng phát của dịch SARS cũng làm tăng nhận thức về việc ngăn chặn sự lây truyền bệnh do virus, đặc biệt là ở Hong Kong. Người dân có ý thức phòng bệnh hơn, các bề mặt nơi công cộng thường xuyên được vệ sinh sạch sẽ hơn và “sạch sẽ” trở thành yếu tố nhất định phải có trong mọi môi trường sống của người dân Hong Kong ngày nay.
Cúm H1N1 (2009 – 2010)
Tháng 3-2009, một dạng mới của virus cúm xuất hiện tại Mexico. Trong vòng vài tháng, dịch cúm đã lây nhiễm cho hàng trăm triệu người, với số ca tử vong toàn cầu từ 151.700-575.400.
Ngày 11-6-2009, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã chính thức công bố đại dịch cúm toàn cầu.
Dịch cúm này kết thúc trong cùng năm 2009 nhờ các biện pháp y tế chữa trị hiện đại và một phần không nhỏ nhờ các biện pháp phòng ngừa được người dân thực hiện. Đó là cách ly người bệnh; rửa tay thường xuyên bằng xà phòng, tránh tối đa việc chùi tay lên mắt và mũi, che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi; không khạc nhổ bừa bãi; sử dụng các dung dịch sát khuẩn đường mũi, họng, mắt; tránh tiếp xúc gần với người bệnh hoặc người nghi nhiễm cúm; ăn uống đủ dinh dưỡng giúp nâng cao hệ miễn dịch.
Dịch Ebola (2014 – 2016)
Virus Ebola được đặt tên theo một dòng sông gần với nơi bùng phát đầu tiên. Mặc dù dịch Ebola không lây nhiễm trên quy mô toàn cầu nhưng lại được đánh giá là cực kỳ nguy hiểm.
Nó bắt đầu ở một ngôi làng nhỏ ở Guinea vào năm 2014 và lan sang một số nước láng giềng ở Tây Phi trong vài tháng. Bệnh lây truyền thông qua tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết cơ thể như tinh dịch, sữa mẹ, mồ hôi, nước mắt hoặc chất bài tiết, chất thải của người mắc bệnh Ebola.
Tháng 8-2014, WHO chính thức ban bố dịch Ebola là “trường hợp khẩn cấp y tế công cộng cần được quốc tế quan tâm”.
Bằng hàng loạt biện pháp cách ly, phòng ngừa, nâng cao ý thức phòng dịch trong cộng đồng và hoạt động cứu trợ y tế từ các tổ chức khác nhau, đến năm 2016, dịch bệnh được đẩy lùi. Tuy nhiên, Ebola cũng đã giết chết 11.325 trong số 28.600 người nhiễm bệnh, hầu hết các trường hợp là ở Guinea, Liberia và Sierra Leone.
Giống như “đại dịch bị lãng quên”, Ebola gây ảnh hưởng nặng tại các quốc gia có điều kiện kinh tế và y tế lạc hậu. Người dân không đủ kiến thức và cách thức để tránh dịch.
COVID-19 (2019 – hiện tại)
Tháng 1-2020, chính quyền Trung Quốc công bố ca nhiễm COVID-19 đầu tiên tại thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc. Tính đến ngày 20-3, toàn thế giới đã có hơn 245.000 ca nhiễm, với hơn 10.000 ca tử vong.
Cho đến nay, toàn thế giới vẫn đang căng mình tìm cách ngăn chặn dịch bệnh bằng nhiều biện pháp khác nhau: phong tỏa đất nước, tạm dừng khai thác hàng không, cấm hoạt động tại các địa điểm công cộng.
Dịch bệnh COVID-19 cũng cho thấy một lỗ hổng lớn về các biện pháp chuẩn bị phòng chống đại dịch ở mọi quốc gia. Giống như H1N1 hay SARS, COVID-19 đã chứng minh rằng đại dịch do virus có thể lây lan nhanh như thế nào trong thế kỷ 21, cho thấy rằng con người cần phải chuẩn bị thêm những biện pháp để ứng phó nhanh hơn trong tương lai.
Mặc dù diễn biến dịch bệnh vẫn phức tạp nhưng hầu hết người dân và chính phủ các nước đều có niềm tin dịch bệnh sẽ được đẩy lùi. Dân trí cao, ý thức phòng bệnh và tình đoàn kết của người dân trước đại dịch càng khiến niềm tin này thêm lớn.